Chủ
tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước, ở một
đất nước thuộc địa, có nhiều dân tộc, sớm hình thành quốc gia – dân tộc thống
nhất. Trong quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm, dân tộc ta đã hình
thành và phát triển nền văn hóa dân tộc rực rỡ, mà hạt nhân là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam, ý chí đấu tranh bất khuất, tinh thần nhân ái, khoan dung và ý
thức cộng đồng, cố kết dân tộc để làm chủ thiên nhiên, làm chủ xã hội. Chính
nền văn hóa ấy cùng những ảnh hưởng tích cực của văn hóa phương Đông đã hun đúc
nên nhân cách Hồ Chí Minh và góp phần to lớn vào sự hình thành và phát triển tư
tưởng của Người.
Chứng kiến thất bại,
không có thành công của các vị yêu nước tiền bối và cảnh đời nô lệ của người
dân mất nước, dưới ách thực dân Pháp tàn bạo, tháng 6/1911, người thanh niên ưu
tú của dân tộc Việt Nam - Nguyễn Tất Thành quyết chí ra đi tìm đường cứu nước.
Vận mệnh của nước, của dân gắn bó mật thiết với một quyết định mà lịch sử đã
chứng minh là sáng suốt phi thường. Trải qua gần 10 năm bôn ba nhiều châu lục,
gắn bó với phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân
tộc duy nhất đúng đắn. Từ đó, hoài bão mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho
đồng bào chi phối toàn bộ tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí
Minh.
Mùa xuân năm 1930, theo Chỉ thị của Quốc tế cộng sản, Người đã chủ trì Hội nghị
thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông Dương, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1941, sau 30 năm
hoạt động ở nước ngoài Người về nước triệu tập Hội nghị lần thứ tám của Ban
chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập
Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh).
Ngày 22/12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay.
Những nhân tố quyết
định trên đảm bảo vững chắc cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Mở đầu là
thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh
ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông
Nam châu Á, khẳng định vị trí của Việt Nam trên bản đồ thế giới, sánh vai cùng
các dân tộc đấu tranh không mệt mỏi cho một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh.
Trong những ngày đầu
cách mạng, nước ta có nhiều khó khăn và bị bao vây bốn phía. Nạn đói do phát
xít Nhật - Pháp gây ra đã giết hại hơn hai triệu người Việt Nam. Tháng
9/1945, cấu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung
Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi
thành quả của Cách mạng tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Ban chấp hành
Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân ta vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở
miền Nam,
vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc.
Hiệp định sơ bộ ngày
06/3/1946 được ký kết giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp. Quân Tưởng Giới
Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra miền Bắc và lấn dần từng bước
ở miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước
tình hình ấy, tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến
và cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, toàn
diện và lâu dài chống thực dân Pháp đến thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ năm
1954.
Tháng 7/1954, Hiệp định
Giơ-ne-vơ được ký kết. Miền Bắc Việt Nam được giải phóng. Nhưng miền Nam bị đế quốc
Mỹ biến thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Người cùng với Trung ương Đảng lãnh
đạo nhân dân cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Tháng 9/1960, đại hội
lần thứ ba của Đảng đã họp, thông qua nghị quyết về hai nhiệm vụ chiến lược và
bầu đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự
lãnh đạo của Người và của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhân dân ta vừa đẩy
mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cuộc kháng chiếng
chống Mỹ, cứu nước để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà
và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Ngày 02/9/1969, Người
đã qua đời. Trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân Việt Nam bản Di chúc
lịch sử. Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân
ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Thực hiện Di chúc của
Người, toàn dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng đánh thắng cuộc chiến tranh phá
hoại bằng máy bay B52 của đế quốc Mỹ, buộc Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pari
ngày 27 tháng 1 năm 1973, chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội Mỹ và
chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam. Mùa xuân năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc, thực hiện được mong ước thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuộc đời của Chủ tịch
Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại,
một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không
mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế
giới.
Ngày nay, trong sự
nghiệp đổi mới của đất nước, hội nhập với thế giới, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh.
Theo Hồ Chí Minh – Chân
dung một con người