Di tích thành Tân Sở và Đền thờ Vua Hàm Nghi


Cập nhật 09/06/2023 Lượt xem 350

Tân Sở (vùng đất mới) nằm giữa một bình nguyên đất đỏ bazan có tên gọi là vùng Cùa. Tân Sở nằm trong địa bàn Mai Đàn, xã Cam Chính, huyện Cam Lộ; cách trung tâm huyện lỵ Cam Lộ 10km về phía Tây nam.

Di tích Căn cứ Tân Sở đã được Bộ VHTT xếp hạng Quốc gia theo Quyết định số 65/QĐ-BVHTT ngày 16 tháng 01năm 1995. Đây không chỉ là một di tích thành lũy quân sự cuối cùng của triều đại phong kiến nhà Nguyễn, một địa điểm lịch sử ghi dấu những sự kiện quan trọng của phong trào Cần vương chống Pháp đầu thế kỷ XX  mà còn là một di chỉ khảo cổ học có ý nghĩa đối với khu vực miền Trung. 


Hình 1: Bia Di tích thành Tân Sở


Bình nguyên Cùa (mà Tân Sở là trung tâm) nằm kẹp giữa hai con sông lớn là Hiếu Giang và Thạch Hãn. Nó được coi là thềm bậc 2 của 2 con sông này qua đèo Cùa ở phía Bắc và qua đèo 365 ở phía Tây Nam. Bao quanh bốn phía là các đỉnh núi, cao điểm tạo ra hàng rào tự nhiên che chắn và án ngự làm cho địa hình vùng này có những ưu thế đặc biệt về địa lý và có vai trò quan trọng về chiến lược quân sự. Phía Nam của Cùa là đỉnh động Ho; phía Bắc là đỉnh Chọp bụt; phía Tây nam là động lở (cao điểm 241 hay Carol); phía Tây là động Toàn và Ba Hồ; phía Đông là dãi đồi thấp như là một vách ngăn giữa Cùa và Cam Lộ. Chính địa hình này đã làm cho Cùa trở thành một phức thể bao gồm các đồi đất đỏ tròn, bằng bị xâm thực nhẹ bởi các dòng khe uốn lượn và đổ xuống hai dòng Thạch Hãn, Hiếu giang. Không gian này tương đối thuận lợi về nhiều mặt để người Nguyên thủy từ xa xưa có thể sử dụng làm địa bàn cư trú và sinh sống.

Tân Sở cũng là một vùng hết sức kín đáo biệt lập với đồng bằng và xa cách với trung tâm các lỵ sở, rất thuận tiện cho việc xây dựng một căn cứ kháng chiến. Ba mặt Tây, Nam, Bắc đều dựa vào các dãy đồi núi tự nhiên tạo ra như một vòng thành khép kín. Mặt phía Đông hướng ra đồng bằng Triệu Phong, Hải Lăng rất thuận lợi cho việc giao lưu với miền xuôi. Ngoài ra Tân Sở còn có hai con đường thượng đạo dẫn qua Lào (qua đèo 365) và  ra Bắc (đèo Canon)  thuận lợi cho việc trấn giữ cũng như rút lui. Vì vậy qua nhiều thời kỳ nơi đây đã trở thành một lỵ sở cai trị của chính quyền quân chủ phong kiến: trước năm 1867 nó là đồn trấn ải biên giới, đến năm 1867 được đổi thành Nha sơn phòng/Sơn phòng Quảng Trị. Năm 1883 khi Pháp đánh chiếm Thuận An thì đổi thành căn cứ Tân Sở hay còn gọi là thành Tân Sở.

Từ năm 1858, đất nước Việt Nam đứng trước nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa thực dân phương Tây mà trực tiếp là thực dân Pháp. Triều đình nhà Nguyễn sau một thời gian tổ chức chống cự yếu ớt đã đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác, chấp nhận cắt đất, bán rẻ chủ quyền dân tộc cho người Pháp. Trong nội bộ triều đình yếu hèn, bạc nhược của nhà Nguyễn nổi lên phái chủ chiến, kiên quyết đánh Pháp đứng đầu là Thượng thư bộ binh Tôn Thất Thuyết và quan Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường. Năm 1883, trước sự uy hiếp của quân đội Pháp, Huế không còn là kinh đô an toàn cho vua quan nhà Nguyễn. Đứng trước nguy cơ mất nước, kinh thành bị uy hiếp, phái chủ chiến của triều đình đã bí mật tổ chức sơn phòng ở các tỉnh để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Trong bối cảnh đó, một kinh đô dã chiến đã được khẩn trương xây dựng ở Quảng Trị để làm nơi trú ẩn cho vua và triều thần kinh thành hữu sự. Đó là sơn phòng Quảng Trị/căn cứ Tân Sở/thành Tân Sở.

Căn cứ Tân Sở được khởi công xây dựng từ 1883, đến năm 1885 thì cơ bản hoàn thành. Dưới sự chỉ đạo của các vị quan đứng đầu phái chủ chiến như: Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Lệ, Đăng Duy Cát, hàng ngàn binh lính, dân phu từ các địa phương được huy động để đào đắp miệt mài suốt ngày đêm.


Hình 2: Mô phỏng Di tích thành Tân Sở

Qua tư liệu của các học giả người Pháp như Pirey, Delvaux và những nhà nghiên cứu Việt Nam cũng như qua khảo sát thực thì có thể thấy thành Tân Sở được cấu trúc theo 2 vòng thành. Thành ngoài có hình chữ nhật chiều dài 548m, chiều rộng 418m, tổng diện tích là  22,9ha. Bốn phía có 4 cửa: Tiền, Hậu, tả, Hữu. Các bờ lũy đắp bằng đất nện chặt, phía ngoài có hàng rào cọc nhọn và hệ thống hào bao quanh (hào sâu 2m rộng 10m). Bốn phía xung quanh cửa thành được trồng tre đan kín. Tất cả có 4 hàng tre ken dày, bờ tre ngoài cách bờ tre thứ hai 21m, bờ tre thứ 2 cách bờ tre thứ ba 13m, bờ tre thứ ba cách bờ tre thứ tư 5m. Giữa các bờ tre là lớp tường thành đắp bằng đất nện chặt. Ở 4 góc thành có 4 giếng nước sâu 20m dùng để lấy nước phục vụ sinh hoạt. Bên trong thành ngoại có nhà cửa, trại lính, kho hậu cần, bãi tập trận của voi, ngựa. Ở góc thành phía cổng tiền, hữu có bố trí các đồn bốt quan sát từ xa gọi là lính vọng cơ. Góc thành ở cổng tiền, tả có các trại lính làm nhiệm vụ trực chiến, bảo vệ gọi là lính phòng thành. Ở 4 góc đều có các ụ súng đại bác hướng ra 4 phía để bảo vệ thành nội.         

Thành nội được xây dựng bằng gạch vững chắc. Chiều dài thành là 165m, rộng 100m, tổng diện tích là 1,65ha. Nội thành có 5 cửa: tiền, hậu, tả, hữu và cửa Ngọ môn dành cho vua và các quan ra vào hành cung. Trong thành nội có các khu nhà kiên cố dùng cho vua và các quan làm việc như: Tiền đường, Bang tá, Lãnh binh, Chánh sứ, Phó sứ. Trước ngày kinh thành Huế thất thủ, một khối lượng lương thực, vũ khi, vàng bạc đã không ngừng được vận chuyển lên căn cứ Tân Sở.

Sau sự kiện binh biến đêm mồng 4/7/1885 (23/5 năm Ất Dậu) tại Kinh Thành Huế do phái chủ chiến tiến hành đánh úp Pháp bị thất bại, Tôn Thất Thuyết rước vua và đoàn tùy tùng phò xa giá Hàm Nghi ra Tân Sở để thực hiện kế hoạch kháng chiến theo như những dự tính từ trước. Sáng sớm ngày mồng 5/7/1885, ngự đoàn rời kinh thành để ra Quảng Trị. Chiều mồng 6/7/1885, vua và ngự đoàn đến Quảng Trị. Xa giá ngủ đêm trong hành cung Quảng Trị. Sáng mồng 9/7/1885, ngự đoàn gồm Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và những người tùy tùng lên đường đến Tân Sở.

Tại Tân Sở, ngày 13/7/1885 (1/6/Ất dậu), thay mặt vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết đã ban hịch Cần Vương kêu gọi nhân dân phò vua đánh Pháp. Từ đó Tân Sở trở thành trung tâm dấy nghĩa phong trào Cần Vương, linh hồn của phong trào yêu nước chống Pháp. Hưởng ứng hịch Cần Vương, khắp nơi trong cả nước, dưới sự lãnh đạo của các văn thân, sĩ phu yêu nước nhân dân đã nổi dậy đánh Pháp, phong trào phát triển kéo dài cho đến những năm đầu thế kỷ XX. Ở Quảng Trị, hưởng ứng lời hiệu triệu Cần Vương, hàng ngàn nghĩa binh chiêu mộ từ các làng xã đã được đưa lên Tân Sở. An Sát Quảng Trị là Tôn Thất Nam đưa lên Tân Sở 200 quân Cần Vương. Các thủ lĩnh địa phương như Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như đã lấy Hà Thượng làm nơi tụ nghĩa, chỉ huy nghĩa quân đánh nhau với Pháp khi chúng cho quân đánh chiếm ra Quảng Trị, gây cho chúng nhiều thiệt hại trong các trận Trạng Mè, Đò Lục...Đề đốc Hoàng Văn Phúc mộ được 8 nghĩa quân cũng tổ chức đánh nhau với Pháp ở Cửa Việt và hy sinh một cách anh dũng (1886).

Sau khi chiếm được Tân Sở, quân đội Pháp đã cho đốt phá, hủy diệt căn cứ. Tân Sở chìm trong biển lửa. Tất cả hầu như bị triệt hạ hoàn toàn. Trước đó ít ngày, Tôn Thất thuyết đưa vua Hàm Nghi rời Tân Sở theo đường Cam Lộ để ra Bắc nhưng chiến hạm của Pháp đã đổ bộ lên Đồng Hới chặn đường nên xa giá và đoàn tùy tùng phò vua phải trở lại Tân Sở, sau đó mới vượt đèo 365 sang vùng Ba Lòng rồi lên Lào, theo đường thượng lộ ra Bắc. Trong lúc nguy nan, trên đường bôn tẩu, vì không chịu được gian khổ, đói rét nên phần lớn binh lính và dân phu đều bỏ trốn, một số quan binh ra đầu thú với Pháp trở lại chỉ đường truy đuổi Hàm Nghi.

Tân Sở một công trình thành lũy quân sự dã chiến, căn cứ phòng bị cho kinh thành khi thất thủ, trung tâm đầu não lãnh đạo phong trào Cần Vương. Đó cũng là một công trình thành lũy quân sự cuối cùng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn trước khi cáo chung. Ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, căn cứ Tân Sở là nơi chứng kiến những ngày bi hùng của dân tộc, ghi nhận sự vùng dậy cuối cùng của giai cấp phong kiến quân chủ Việt Nam trong phong trào lãnh đạo dân tộc chống ngoại xâm. Tân sở là nơi nhen nhóm và thổi bùng ngọn lữa của phong trào yêu nước chống Pháp những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX - tiền đề của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ đã san ủi vùng Cùa, trong đó có Tân Sở, biến nơi đây thành một căn cứ quân sự của chúng. Vì vậy, Tân Sở cho đến nay đã bị phá hủy hoàn toàn chỉ còn lại một ít vòng thành bằng tre lờ mờ. Trên mặt bằng của căn cứ Tân Sở xưa là những hố bom sâu hoắm của Mỹ để lại. Hiện nay khu đất này đã trở thành đất trồng cây lâm nghiệp của dân địa phương. Căn cứ Tân Sở/thành Tân Sở - kinh đô dự bị của triều đình nhà Nguyễn trong giai đoạn chống Pháp chỉ còn lại trong ký ức.

Trong những năm qua, di tích căn cứ Tân Sở đã được Đảng bộ, chính quyền huyện Cam Lộ quan tâm đầu tư, trong đó Đền thờ vua Hàm Nghi được khánh thành và đưa vào sử dụng tháng 7/2020, song song với đó, huyện Cam Lộ cũng đã tổ chức lễ rước Long vị của Vua Hàm Nghi, Binh bộ Thượng thư Tôn Thất Thuyết và Kỳ vỹ Quận công Nguyễn Văn Tường về an vị tại đền thờ theo phong tục của địa phương. 
Đây là những công trình, hoạt động ý nghĩa góp phần giáo dục truyền thống lịch sử ý nghĩa của địa phương cho thế hệ hôm nay



Hình 3: Hướng dẫn viên giới thiệu về căn cứ Tân Sở cho các học viên Trường Chính trị Lê Duẩn



  THÔNG TIN BẢN QUYỀN


- Bản quyền thuộc về: HUYỆN ĐOÀN CAM LỘ

- Thiết kế bởi: VNPT QUẢNG TRỊ
Số 20 Trần Hưng Đạo, Phường 1, Tp Đông Hà, Tỉnh Quảng Trị

  THÔNG TIN LIÊN HỆ


Huyện Đoàn Cam Lộ: Khu phố 2, thị trấn Cam Lộ, huyện Cam Lộ tỉnh Quảng Trị
- Điện thoại: 0533.871.331
- Email: huyendoancamlo@yahoo.com , tuoitrecamlo@gmail.com

 THỐNG KÊ TRUY CẬP


Online
0

Tổng truy cập
Tổng truy cập
0